Đi đến tương lai vào năm 2045, một giảng viên người Pháp giải thích về hiện tượng Việt Nam, từ xuất phát điểm một nước nghèo, vươn mình trở thành một cường quốc về kỹ thuật số lớn trên thế giới. Ông háo hức tìm hiểu và nói về cách mà Việt Nam tận dụng những yếu tố địa lý, cơ sở hạ tầng để phát triển. Khi chia sẻ với sinh viên của mình, ông cảm thấy sự thành công bất ngờ chính là việc Việt Nam tự động hóa lực lượng lao động, thành một nước có kỹ năng số lớn nhất Châu Á.
Với tầm nhìn tương lai trong Chiến lược phát triển Kinh tế - Xã hội lần thứ 13 được thông qua vào tháng 2/2021. Sự tăng trưởng vượt bậc tạo nên những cuộc cách mạng công nghệ, chuyển đổi số tác động to lớn đến toàn xã hội cũng như đến từng cá nhân. Dự kiến việc phát triển này sẽ lớn mạnh trong tương lai.
Bắt đầu phân tích tác động từ những thay đổi này với Việt Nam, ngân hàng Thế Giới đã thấy được quá trình chuyển đổi số nhanh chóng, quả thực mà nói mục tiêu đầy tham vọng này giúp Việt Nam đạt được mục tiêu đề ra. Giả thiết rằng các ngành công nghệ số tăng trưởng với tốc độ khoảng 10% mỗi năm, lợi ích lũy kế của nền kinh tế sẽ đạt trên 200 tỉ đô la Mỹ trong giai đoạn 2021 – 2045, gần bằng GDP của Việt Nam hiện nay. Đóng vai trò quan trọng trong nền công nghệ số thì nền kinh tế, việc sử dụng máy tính, công cụ công nghệ thông tin, sẽ góp phần tăng năng suất trong các ngành nghề. Tạo mắt xích liên kết cùng nền kinh tế.
Quá trình số hóa nhanh chóng đến mức độ chúng tôi cảm thấy được nền kinh tế Việt Nam sẽ phát triển thị trường lao động. Có thể việc số hóa vừa mất đi vừa tạo ra việc làm. Tại các ngành công nghệ thay thế con người trong việc làm, sự bổ trợ tương trợ giữa công nghệ hiện đại và lao động có tay nghề, ví dụ như tăng cơ hội hợp tác làm việc thông qua các nền tảng mạng xã hội, các sản phẩm có thương hiệu trên nền tảng thương mại điện tử và phân tích có sử dụng dữ liệu thu thập từ Internet.
Ở thế giới không có rào cản, số lượng việc làm mới trong quá trình chuyển đổi số sẽ tạo ra nhiều hơn gấp bảy lần so với công việc vừa mất đi. Nói một cách thẳng thắn là theo giả thiết này, chuyển đổi số có khả năng dẫn đến việc công nghệ thay thế con người, làm giảm lợi ích chung của nền kinh tế và tạo ra sự bất bình đẳng lớn, từ đó có thể làm phát sinh nhiều hệ lụy về kinh tế và xã hội cho Việt Nam.
Kết quả chính của phân tích này cho thấy Việt Nam muốn thành công trong quá trình chuyển đổi số cần phải tập trung nguồn lực nâng cao kỹ năng số của lực lượng lao động trong nước.
Việc nâng cao kỹ năng cho người lao động Việt Nam là trong tầm tay. Vậy ai là người đảm nhiệm việc này? Thị trường lao động sẽ dần điều chỉnh theo thời gian về nhu cầu lao động có tay nghề tăng cao, tăng ở mức độ tương đối, và khuyến khích người lao động và doanh nghiệp đầu tư nhiều hơn về giáo dục đào tạo, vì theo kinh nghiệm đã chứng minh rằng việc thích ứng nhất định này. Họ có thể không được tiếp cận những thông tin hay không có nguồn tài chính để đầu tư cho việc đào tạo dài hạn. Trong khi đó doanh nghiệp có thể không muốn đầu tư vào đào tạo nhân viên vì rất có thể khi tay nghề nâng cao họ lại “nhảy việc” sang đối thủ cạnh tranh khác. Do đó chúng tôi cho rằng Chính phủ sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ cho người lao động và đáp ứng nhu cầu đang ngày càng gia tăng này.
CÔNG NGHỆ SỐ TẠI VIỆT NAM QUAN TRỌNG NHƯ THẾ NÀO?
Thông tin nhiều hơn, sự lựa chọn nhiều hơn, doanh số cao hơn, khách hàng hài lòng hơn. Tất cả dữ liệu tăng lên có thể giúp các doanh nghiệp nắm rõ được các xu hướng của thị trường tiêu dùng nào đang là trào lưu và tiếp cận nguồn khách hàng mới đó.
Tại các quốc gia, hàng triệu sản phẩm được đặt hàng qua website thương mại điện tử, giao hàng nhanh trong ngày giúp khách hàng không cần phải đến cửa hàng. Việc này giúp doanh nghiệp cung cấp sản phẩm nhanh chóng, và tiết kiệm thời gian cho người tiêu dùng. Các chi phí giảm, khả năng cạnh tranh cao, sản phẩm mới cùng dịch vụ mới. Song tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cắt giảm các chi phí thuê, vận hành, bảo dưỡng. Các hàng hóa bán lẻ sẽ được giao thẳng từ nhà máy/ nhà kho đến tay khách hàng.
Thị trường lao động cần được thiết kế linh hoạt hơn, cho phép người lao động có thể dễ dàng chuyển từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Các cơ quan chức năng hãy cung cấp thông tin đầy đủ cho người lao động về các xu hướng và nhu cầu của thị trường lao động để giúp họ đưa ra quyết định.
Các chương trình giáo dục kỹ thuật và dạy nghề cần được nâng cao chất lượng. Tạo điều kiện thuận lợi để những người lao động có chuyên môn cao gia nhập hoặc quay trở lại làm việc và hỗ trợ các doanh nghiệp và người lao động về tài chính trong quá trình đào tạo những kỹ năng mới. Nhiều quốc gia trên thế giới đã áp dụng một hoặc một số giải pháp để hỗ trợ những hành động này, và những quốc gia thành công nhất, như Singapore hay Hàn Quốc, đã thực hiện đồng thời tất cả các biện pháp đó.
Bình luận: